
Khoa thiên văn, lịch số không biết khởi thủy từ lúc nào trong thời cổ đại Trung Hoa, chỉ biết Hoàng Đế (2402) đã cho lập Linh đài để quan sát và chiêm nghiệm những hiện tượng tinh tú, từ đó lập “can, chi” để tính năm. Đến vua Nghiêu (2145), là người am hiểu thiên văn, căn cứ vào các vị trí của mặt trời ở các cung sao mà đoán định nhị Phân (Xuân phân, Thu phân), nhị Chí (Đông chí, Hạ chí) rồi định năm là 366 ngày.
Từ đó cho thấy đấng quân vương phải hiểu rõ liên lạc mật thiết giữa những tinh cầu trên trời với sự biến chuyển khí hậu, thời tiết, liên quan đến mùa màng làm lụng của dân gian dưới đất, rồi dùng hiểu biết ấy mà hướng dẫn quốc dân trong việc canh nông hay thu hoạch lâm điền, điều hòa sinh hoạt đời sống con người.
Tầm mức quan trọng ấy được thấy rõ qua thiên “Nguyệt Lệnh” trong “Lễ Ký” do đức Khổng Tử biên soạn, lấy kinh nghiệm cổ nhân dựa vào sự tuần hoàn của thiên nhiên qua bốn mùa, tương quan với vị trí các thiên tinh được nhìn thấy khi trái đất quay một vòng quanh mặt trời mà nêu lên những việc vụ vua quan nên làm, dân gian thường làm và miêu tả nét sinh thái đặc thù của thiên nhiên, cỏ cây, loài vật trong chu kỳ một năm.
“Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn” là tấn tuồng Âm Dương đắp đổi qua bốn bộ mặt hỉ, lạc, nộ, ai của trời đất qua bốn mùa: Xuân như con rồng xanh vẫy vùng biến hóa; Hạ như chim phượng đỏ tung bay; Thu như con hổ trắng rảo tìm mồi; Đông như con rùa đen lạnh lùng chậm chạp. Các nhà thiên văn khi tra cứu đến căn nguyên của thời tiết bốn mùa thì họ lấy đầu mốc từ ngày “Đông chí” và đưa ra nhận định như sau:
Nhìn bên ngoài, Đông chí là ngày ảm đạm của mùa đông đang giăng mắc khắp nơi nhưng tiềm ẩn bên trong lại là ngày “Âm dương hợp tinh”, “Nhật nguyệt hợp bích” nên chính là ngày “Nhất dương lai phục”; nghĩa là ngày bắt đầu của nguồn sống âm thầm tung tỏa từ lòng sâu vật chất và vạn vật, ngấm ngầm hoạt động cho tới ngày Xuân mới thấy phát hiện công trình.
Ngày Xuân phân, dương quang hoàn toàn thắng âm khí. Xuân phân tức là thời điểm giải thoát, nên tháng Hai còn gọi là tháng Mão, vì “Mão” có nghĩa là “cửa trời”, rộng mở để muôn loài lũ lượt kéo nhau ra, vui hưởng kiếp phù sinh.
Mùa Hè mang sức nóng làm tiêu tan tuyết băng trên những đầu non thẳm, khơi chảy rạt rào các nguồn thác suối, châm bơm cho các mạch nước ngầm dưới lòng đất thêm phong phú. Sức sống vạn vật trong mùa hè bừng cháy lên như những ngọn lửa đỏ, muôn hoa rực rỡ trên áo lá xanh um. Cho tới ngày Hạ chí, dương cực thịnh cũng là lúc âm khí vẩn lên trong lòng ánh sáng, nọc độc của sự suy vong tàn tạ bắt đầu tiêm nhiểm vào tinh tủy của muôn loài. Do Âm khí bắt đầu hoạt động nên tháng “Trọng Hạ” gọi là tháng Ngọ, Ngọ có nghĩa là “ngỗ nghịch”, đưa tuần hoàn vào con đường phong trần luân lạc mới.
Mùa Thu là thời điểm của kết quả, gặt hái. Tạo vật đã hoàn tất công trình nên để cho cây cối từ đây ra chiều ngất ngây bả lả. Mùa thu gợi lên sự thịnh nộ của đất trời và sự thúc bách của dân gian, nông dân vung liềm búa sắc bén gặt hái, đốn chặt. Trung Thu là tiết “Thu phân”, sương rơi lá rụng, trong tháng Tám này vạn vật sửa soạn trở vào lòng đất nghỉ ngơi; nên tháng Tám là tháng Dậu, Dậu là cánh cửa trần gian sắp khép lại, các thành quả vật chất thu liễm được, đem vào kho lẫm để dành.
Mùa Đông là mùa “ẩn áo, bế tàng”. Từ thu-phân mặt trời đã đi chậm lại, dương quang yếu ớt. Đông sang, các sinh vật thi nhau lẫn tránh giá rét, thú vật về hang, chim chóc đua nhau vỗ cánh xuôi Nam, con người cũng bắt chước mà về ngơi nghỉ. Đất trời đã hoàn thành công việc nên giống như cánh cửa đóng lại. Vua chúa cũng ra lệnh đóng kho lẫm, đóng quan ải, thành thị, làng mạc; sửa sang lại bờ cõi, đề phòng giặc ngoại xâm. Lạnh lẽo của tuyết sương băng giá phủ trùm lên vạn vật, chu kỳ của mầm sống lại bắt đầu âm thầm lai phục chờ tái sinh.
Dưới đây là phần thi văn, người viết chỉ ghi lại nhịp điệu của bốn mùa ảnh hưởng đến loài vật, cỏ cây và sinh hoạt dân gian, lược bỏ nội dung về trách vụ của vua quan, được trích tác từ thiên “Nguyệt Lệnh” trong “Lễ Ký”; Và cả phần tóm lược bằng tản văn trên, đều lấy từ quyển “Khổng Học Tinh Hoa” (XB 1970) của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ.
NHỊP ĐIỆU BỐN MÙA
MÙA XUÂN
Tháng đầu của mùa xuân
Cá ngoi mặt nước băng
Sâu bọ rời hang ổ
Hồng nhạn bay về bằng.
Thanh khí trời vận xuống
Vượng khí đất bốc lên
Cây xanh nẩy chồi lộc
Nương rẫy người sửa sang.
Tháng hai của mùa xuân
Ưng hóa thành chim gáy
Mưa bắt đầu nhẹ rơi
Hoa đào bừng nở tới.
Bước vào tháng xuân phân
Bầu trời nháng sấm động
Nhạn đen về từng đàn
Loài đông miên thức giấc.
Tháng giáp ất cuối xuân
Nở tràn hoa ngô đồng
Cầu vòng bắt đầu mọc
Bèo xanh phủ ao mương
Chim cút chạy đầy đồng
Tu hú hót ngàn dâu
Tằm nuôi nhả tơ óng
Dương khí thịnh tràn lan.
MÙA HẠ
Đầu hạ đến lập hạ
Ếch nhái kêu gần xa
Dưa gang, rau diếp nở
Dược thảo hái phơi khô.
Tháng giữa hạ nóng vừa
Chim quyết kêu ban trưa
Chim bách-thiệt thôi hót
Đồng lúa mạch lưa thưa
Ve kêu, bọ ngựa múa
Rau cần nước đâm bông
Hươu lộc nhung thay sừng.
Cuối hạ gió nóng thổi
Chim ưng tập vồ mồi
Chân tường lũ dế rúc
Đom đóm đêm chớp ngời
Cỏ khô cắt lưu trử
Thâu lau sậy đầm hồ
Tháng đất ẩm khí nóng
Nước sôi mặt ruộng đồng
Cỏ chết mục thành phân
Ruộng khô tràn mưa lớn.
MÙA THU
Đầu thu gió mát thổi
Ve rít, sương trắng rơi
Chim ưng liệng săn mồi
Chim con bay núp vội.
Kim khí hiện oai trời
Ba ngày trước lập thu
Vua quan liền trai giới
Ra đồng lễ đón thu.
Tháng này mùa gặt hái
Giữa thu gió mạnh tuôn
Bay về chim hồng nhạn
Bầy én rủ xuôi nam.
Thu phân trời dứt sấm
Thú ngủ bít miệng hang
Chim chóc trử lương thực
Đầm khơi nước cạn dần.
Rừng muôn màu cuối thu
Hồng nhạn về tạm trú
Cúc nở vàng âm u
Chim biển lặn bắt cá
Sói lùng mồi đứng tru
Tháng đầy sương trắng xóa
Trời rét người trong nhà
Lá vàng rơi lả tả.
MÙA ĐÔNG
Đầu đông trời cóng buốt
Chim trĩ nhào xuống nước
Không còn thấy cầu vòng
Mặt đất nước giá băng.
Lập đông mặc áo cừu
Thi nhân bày tiệc rượu
Giữa đông đất lạnh nứt
Băng đóng dầy đầm sông
Chim báo ngày thôi hót
Mùa hổ rừng giao hoan.
Tháng có ngày ngắn nhất
Suối nguồn chuyển động tuôn
Cỏ thơm, cỏ lệ lớn
Hươu sắp thay sừng non
Dun đất thu hình trốn
Đông chí tre, cây dọn.
Trọng đông rồi quý đông
Nhạn bay về phương bắc
Trĩ kêu, thước làm tổ
Gà ấp trứng trong chuồng.
Mặt trời đi một vòng
Mặt trăng về chỗ cũ
Ngày của năm sắp cạn
Chuẩn bị chào tất niên.
**
Lê giang trần sưu tập.
Texas, vào đông 2008.